Chấn thương tuỷ sống là gì? Các công bố khoa học về Chấn thương tuỷ sống

Chấn thương tuỷ sống là một loại chấn thương nghiêm trọng xảy ra khi tuỷ sống bị tổn thương do va đập, gãy hoặc bị nén. Chấn thương này có thể gây tổn thương nặ...

Chấn thương tuỷ sống là một loại chấn thương nghiêm trọng xảy ra khi tuỷ sống bị tổn thương do va đập, gãy hoặc bị nén. Chấn thương này có thể gây tổn thương nặng nề cho hệ thống thần kinh và gây ra tình trạng liệt toàn thân hoặc một phần cơ thể. Chấn thương tuỷ sống có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng và ảnh hưởng lớn đến chất lượng cuộc sống của người bệnh.
Chấn thương tuỷ sống có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm tai nạn giao thông, tai nạn lao động, thể thao, hoặc chấn thương do tác động mạnh lực lượng. Các triệu chứng của chấn thương tuỷ sống có thể bao gồm liệt, giảm cảm giác, giảm khả năng vận động, hoặc mất kiểm soát vùng cơ bắp. Người bị chấn thương tuỷ sống cần được đưa đến cơ sở y tế cấp cứu ngay lập tức để nhận được điều trị và chăm sóc y tế kịp thời và chuyên môn. Điều trị chấn thương tuỷ sống thường gồm phẫu thuật, dùng thuốc giảm đau và điều trị phục hồi chức năng. Các trường hợp chấn thương tuỷ sống thường rất nghiêm trọng và đòi hỏi quá trình điều trị và phục hồi lâu dài.
Chấn thương tuỷ sống cũng có thể gây ra các vấn đề bổ sung như rối loạn hô hấp, vấn đề với chức năng tiêu hoá, vấn đề về huyết áp và lưu chuyển máu, cũng như rủi ro cao về nhiễm trùng đường hô hấp hay tiểu đường. Người bị chấn thương tuỷ sống thường cần phải tiếp tục theo dõi sức khỏe thường xuyên và tham gia vào chương trình phục hồi chức năng, vật lý trị liệu, và hỗ trợ tâm lý. Việc hỗ trợ từ gia đình, cộng đồng và nhóm chuyên gia y tế rất quan trọng đối với người bị chấn thương tuỷ sống để họ có thể vượt qua khó khăn và tái lập lại cuộc sống hàng ngày.
Một số biện pháp phục hồi không gian lên trở lại các hoạt động hàng ngày, bao gồm sử dụng thiết bị hỗ trợ như xe lăn hoặc que đi bộ, điều chỉnh môi trường sống, kỹ thuật làm việc và tận dụng các phương pháp thích nghi mới. Ngoài ra, người bị chấn thương tuỷ sống cũng thường cần hỗ trợ tâm lý để giúp họ vượt qua tình trạng trầm cảm, lo âu và đối diện với sự thay đổi lớn trong cuộc sống.

Các tổ chức y tế và cộng đồng thường cũng cung cấp hỗ trợ cho người bị chấn thương tuỷ sống và gia đình của họ, từ việc cung cấp thông tin, tư vấn tâm lý, đến hỗ trợ về việc vận chuyển và đi lại, và một loạt các dịch vụ khác để giúp họ thích ứng và tái hòa nhập vào cuộc sống hàng ngày.
Một số hậu quả khác của chấn thương tuỷ sống có thể bao gồm yếu đuối cơ bắp, vấn đề về tiêu hóa và tiểu tiện, rối loạn giảm cảm giác, và cảm giác đau. Người bị chấn thương tuỷ sống cũng có thể đối mặt với nguy cơ cao về sự cô lập xã hội, mất độc lập và khả năng tự chăm sóc bản thân, do đó hỗ trợ từ gia đình, bạn bè, và các chuyên gia y tế là rất quan trọng.

Hỗ trợ tư vấn tâm lý của người bị chấn thương tuỷ sống cũng đóng vai trò quan trọng, giúp họ điều chỉnh tâm lý và tinh thần trước những thách thức tăng cường sức khoẻ cả cơ thể lẫn tinh thần.

Rất nhiều tổ chức và cộng đồng cung cấp hỗ trợ cho người bị chấn thương tuỷ sống và gia đình của họ, từ thông tin, tư vấn, cho đến hỗ trợ vận chuyển và dịch vụ hỗ trợ khác để giúp họ thích nghi, hòa nhập và phục hồi.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "chấn thương tuỷ sống":

Đánh giá thay đổi huyết động đo bằng USCOM ở bệnh nhân phẫu thuật chấn thương được truyền dịch tinh thể và dịch keo trước gây tê tủy sống
Mục tiêu: Đánh giá thay đổi các chỉ số huyết áp, tần số tim, cung lượng tim (CO), thể tích tống máu (SV), biến thiên thể tích tống máu (SVV) và sức cản mạch hệ thống (SVR) đo bằng USCOM ở bệnh nhân có truyền 15ml/kg NaCl 0,9% và 7ml/kg voluven 6% (HES 130/0,4) trước gây tê tuỷ sống cho phẫu thuật chi dưới. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, đối chứng ngẫu nhiên, mù đơn, thử nghiệm lâm sàng trên 60 bệnh nhân tại Khoa Gây mê hồi sức, Bệnh viện Việt Đức từ tháng 1/2014 đến tháng 5/2014 chia đều thành 2 nhóm: Nhóm 1 (n = 30) được truyền 15ml/kg NaCl 0,9% trong vòng 20 phút trước gây tê tuỷ sống. Nhóm 2 (n = 30) được truyền 7ml/kg voluven 6% (HES 130/0,4) trong vòng 20 phút trước gây tê tuỷ sống đánh giá thay đổi cung lượng tim, thể tích tống máu, biến thiên thể tích tống máu và sức cản mạch hệ thống sự khác nhau về huyết áp, tần số tim tại các thời điểm T1- T10. Kết quả: Bệnh nhân bị tụt huyết áp ở nhóm 1 cao hơn nhóm 2 tại các thời điểm từ T1-T6, huyết áp trung bình của nhóm 2 cao hơn nhóm 1 tại các thời điểm T2, T3, T5, T6. Cung lượng tim tại các thời điểm T2, T3, T4 của nhóm 2 cao hơn nhóm 1. Sức cản mạch hệ thống tại các thời điểm sau gây tê tuỷ sống nhóm 1 thấp hơn nhóm 2 tại T1, T2, T3, T5, T6. Thể tích tống máu của nhóm 2 cao hơn nhóm 1 tại các thời điểm T2, T3, T4, T5, T6, T7. Biến thiên thể tích tống máu của nhóm 2 thấp hơn nhóm 1. Tỷ lệ tụt huyết áp ở nhóm 1 cao hơn hẳn nhóm 2. Tỷ lệ tái tụt huyết áp ở lần 2 không có trường hợp nào ở nhóm 2, ở nhóm 1 có 8/30 bệnh nhân (26,67%). Kết luận: Khi được truyền trước gây tê tuỷ sống, NaCl 0,9% không làm tăng CO, SV nhưng làm tăng SVV, voluven 6% có xu hướng tăng CO, SV và SVR và duy trì SVV ổn định trong và sau gây tê tuỷ sống so với thời điểm nền. Tỷ lệ tụt huyết áp sau gây tê tuỷ sống ở nhóm voluven 6% thấp hơn.
#Huyết động #USCOM #chấn thương #gây tê tuỷ sống
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG CÁC TRIỆU CHỨNG ĐẶC TRƯNG CỦA RỐI LOẠN TRẦM CẢM Ở NGƯỜI BỆNH CHẤN THƯƠNG TUỶ SỐNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 520 Số 1A - 2022
Đặt vấn đề: Trầm cảm là rối loạn tâm thần thường gặp  nhất ở người bệnh chấn thương tuỷ sống. Trầm cảm tác động đến nhiều khía cạnh như làm suy giảm chất lượng cuộc sống, tập luyện và phục hồi kém hiệu quả, tăng nguy cơ tự sát, ảnh hưởng nặng nề tới quá trình phục hồi và tái hoà nhập xã hội của người bệnh. Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm lâm sàng các triệu chứng đặc trưng của rối loạn trầm cảm ở người bệnh chấn thương tuỷ sống. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 107 người bệnh chấn thương tuỷ sống điều trị nội trú tại Trung Tâm Phục Hồi Chức Năng Bệnh viện Bạch Mai và Khoa Cột Sống Ít Xâm Lấn Bệnh viện Châm Cứu Trung Ương từ tháng 08/2020 đến tháng 08/2021. Kết quả: Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là nam giới (87,9%); độ tuổi trung bình 43,25 ± 13,74. Tỷ lệ trầm cảm theo ICD – 10 là 32,7%. Trong các triệu chứng đặc trưng của trầm cảm, khí sắc trầm là hay gặp nhất (100%). Với triệu chứng khí sắc trầm, tâm trạng buồn hay gặp nhất (60%) với tính chất xuất hiện từ từ (71,4%), dao động trong ngày (40%). Với triệu chứng giảm quan tâm thích thú, thường giảm một phần trong các sở thích (70%), các hoạt động xã hội (66,7%) và các mối quan hệ (63,4%) với tính chất xuất hiện từ từ (96,7%) và không thay đổi trong ngày (56,7%). Với triệu chứng giảm năng lượng dẫn đến tăng mệt mỏi, giảm hoạt động, thường gặp nhất là cảm giác tay chân nặng nề, không muốn hoạt động (96,9%), với tính chất xuất hiện từ từ (100%) và không thay đổi trong ngày(40,6%). Kết luận: Trầm cảm là rối loạn tâm thần thường gặp sau chấn thương tuỷ sống. Triệu chứng đặc trưng hay gặp nhất là khí sắc trầm. Các triệu chứng chính của trầm cảm thường xuất hiện với tính chất từ từ và chủ yếu không thay đổi trong ngày.
#chấn thương tuỷ sống #trầm cảm #triệu chứng đặc trưng
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG RỐI LOẠN TRẦM CẢM Ở NGƯỜI BỆNH CHẤN THƯƠNG TUỶ SỐNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 1 - 2021
Đặt vấn đề: Trầm cảm là rối loạn tâm thần thường gặp  nhất ở người bệnh chấn thương tuỷ sống. Trầm cảm tác động đến nhiều khía cạnh như làm suy giảm chất lượng cuộc sống, tập luyện và phục hồi kém hiệu quả, tăng nguy cơ tự sát, ảnh hưởng nặng nề tới quá trình phục hồi và tái hoà nhập xã hội của người bệnh. Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm lâm sàng rối loạn trầm cảm ở người bệnh chấn thương tuỷ sống. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 107 người bệnh chấn thương tuỷ sống điều trị nội trú tại Trung Tâm Phục Hồi Chức Năng bệnh viện Bạch Mai và Khoa Cột Sống Ít Xâm Lấn bệnh viện Châm Cứu Trung Ương từ tháng 08/2020 đến tháng 08/2021. Kết quả: Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là nam giới (87,9%); độ tuổi trung bình 43,25 ± 13,74; nơi sinh sống chủ yếu ở nông thôn (65,4%); trình độ học vấn trung học cơ sở (38,3%). Có 32,7% người bệnh có rối loạn trầm cảm theo ICD10, trong đó trầm cảm nhẹ chiếm 18,7%; triệu chứng khởi phát hay gặp nhất là buồn chán, bi quan (40%); trong các triệu chứng đặc trưng của trầm cảm, khí sắc trầm là hay gặp nhất (100%); trong các triệu chứng phổ biến của trầm cảm, hay gặp nhất là giảm sút tính tự trọng, lòng tự tin và bi quan về tương lai với cùng tỷ lệ 94,3%. Kết luận: Trầm cảm là rối loạn tâm thần thường gặp sau chấn thương tuỷ sống. Trầm cảm thường khởi phát đầu tiên bởi buồn chán, bi quan. Triệu chứng đặc trưng hay gặp nhất là khí sắc trầm, triệu chứng phổ biến hay gặp là giảm sút tính tự trọng, lòng tự tin và bi quan về tương lai.
#chấn thương tuỷ sống #trầm cảm #đặc điểm lâm sàng
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT CỐ ĐỊNH VÀ GIẢI ÉP CỘT SỐNG LỐI SAU TRONG CHẤN THƯƠNG CỘT SỐNG CỔ THẤP CÓ LIỆT TỦY
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 2 - 2021
Nghiên cứu mô tả hồi cứu 60 bệnh nhân chấn thương cột sống cổ thấp có liệt tủyđược phẫu thuật bằng phương pháp mổ lối sau tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức nhằm mô tả các đặc điểm dịch tễ học, nguyên nhân, một số đặc điểm lâm sàng và kết quả điều trị. Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 52,92 ± 14,84 chiếm 65% trong độ tuổi lao động. Trong60 đối tượng nghiên cứu, nam giới chiếm 88,3% và có 4/5 đối tượng tử vonglà nam giới. Tỷ lệ bệnh nhân có rối loạn cơ tròn trước khi phẫu thuật là 91,7% và sau khi phẫu thuật giảm còn 67,9%, sự cải thiện có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ  hồi phụcchức năng cơ tròn tại 2 thời điểm trước và sau phẫu thuật (p<0,05). Và có sự cải thiện có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ bệnh nhân theo phân loại AIS giữa hai thời điểm trước và sau phẫu thuật (p<0,001). Trong vòng 6 tháng sau phẫu thuật tỷ lệ bệnh nhân còn sống là trên 90%.
#chấn thương cột sống cổ thấp #có liệt tủy #phương pháp mổ đường sau
CA LÂM SÀNG SỐT THẦN KINH SAU CHẤN THƯƠNG TUỶ SỐNG
Tạp chí Y - Dược học quân sự - Tập 48 Số 8 - Trang 45-50 - 2023
Sốt thần kinh là tình trạng hiếm gặp và có thể gây tử vong ở bệnh nhân (BN) chấn thương tủy sống. BN thường không đáp ứng với thuốc hạ sốt thông thường và được chẩn đoán sốt thần kinh sau khi đã loại trừ các nguyên nhân gây sốt khác. Tình trạng này được hiểu là do rối loạn chức năng thần kinh tự động dẫn đến suy giảm chức năng điều nhiệt. Chúng tôi báo cáo ca lâm sàng: BN nam 42 tuổi bị sốt 41°C trong 4 ngày sau chấn thương tủy sống liên quan đến các phân đoạn C5-C6. Sốt không đáp ứng với paracetamol. Sau khi loại trừ cả nguyên nhân gây sốt nhiễm trùng và không nhiễm trùng, tăng thân nhiệt được cho là do sốt thần kinh. BN tiếp tục sốt cao, tiến triển tiêu cơ vân, suy chức năng đa tạng và tử vong sau 3 tuần. Thông qua trường hợp này, chúng tôi nhấn mạnh sự cần thiết phải nhận thức được sự khác biệt của sốt thần kinh với các trường hợp sốt cao khác sau chấn thương tủy sống, để chẩn đoán và có thái độ xử trí sốt phù hợp, giúp cải thiện tiên lượng BN.
#Sốt thần kinh #Chấn thương tuỷ sống
Tổng số: 5   
  • 1